Polaroid

Tổng hợp những câu chuyện hay nhất

Câu Chuyện Ngày Xuân

Câu Chuyện Ngày Xuân

Tác giả: Vương Thiển

Ngày cập nhật: 03:00 22/12/2015

Lượt xem: 1342300

Đang đọc: 11 độc giả

Bình chọn: 10.00/10/2300 lượt.

ng, ông chẳng mấy để tâm tới mộng tưởng của Thiệu Âm vợ mình. Ông ngắt lời: “ĂAn còn chưa đủ, nói gì đến trang điểm”.
Nghe thế Thiệu Âm chỉ cười, đáp: “Cuộc sống sẽ ngày một khá lên. Tới lúc đó chắc Tư Tồn cũng biết đi, hay biết nói rồi cũng nên. Chúng mình sẽ đưa con trở về Thượng Hải, cho con đi chơi công viên”. Sắc mặt bà vàng vọt xanh xao, nhưng nghĩ tới những ngày tháng hạnh phúc sau này, khuôn mặt ấy lại ánh lên nét rạng rỡ hạnh phúc.
Thế nhưng “yến tiệc tinh thần” không thể nào bồi bổ cho cơ thể thiếu dinh dưỡng trầm trọng của Thiệu Am. Sau mười tháng mang thai, khi đến cửa ải cuối cùng, bà lại gặp phải điều mà người phụ nữ nào cũng sợ: khó sinh. Lý Thiệu Đường trong lúc hoang mang đã tìm đến một ông bác sĩ trong thôn. Ông bác sĩ nói không thể giữ được mẹ nên phải nhanh chóng làm phẫu thuật để cứu đứa con.
Trong một căn phòng tồi tàn, ông bác sĩ vụng về rạch bụng Thiệu Âm bằng một con dao đã mòn để cứu lấy đứa bé còn đỏ hỏn. Thiệu Âm lúc này gần như đã cạn sức, bà lấy chút hơi sức cuối cùng, cố gắng nói một câu: “Hãy nhớ đặt tên đứa trẻ là Tư Tồn”.
Sau khi Thiệu Âm chết, Lý Thiệu Đường gà trống nuôi con, cuộc sống khó khăn hơn trước bội phần. Vật chất thiếu thốn trầm trọng, có tiền cũng không thuê được vú em, chứ đừng nói đến mua được sữa bò. Ông ta chỉ biết làm theo cách được người dân trong thôn truyền thụ, đó là nấu tiểu mễ thành cháo, chắt lấy nước, rắc vào đó một chút muối rồi bón cho đứa trẻ ăn. Số cháo còn lại ông cũng không nỡ ăn, lại tiếp tục nấu, rồi chắt nước cho tới khi hạt gạo đã nát hết. Tư Tồn vì thiếu chất nên vừa gầy vừa nhỏ, khuôn mặt thanh tú nhưng vàng vọt xanh xao. Cô bé rất ngoan, có đói cũng không bao giờ khóc, chỉ giương đôi mắt to tròn nhìn chằm chằm vào ba. Mỗi lần nhìn thấy con, Lý Thiệu Đường lại nhớ về người vợ đã mất. Có lúc ông còn nghĩ, Tư Tồn là món quà cuối cùng Thiệu Am dành tặng cho mình. Có lúc ông lại nghĩ, nếu không phải vì Tư Tồn, Thiệu Ảm đã không rời xa ông. Nhưng người ông ta hận nhất vẫn là chính mình, nếu không bị ông ta làm liên lụy, Thiệu Ảm sẽ không chết, Tư Tồn cũng không phải chịu cảnh vừa sinh ra đã chịu bao khổ cực như vậy.
Không bao lâu sau, người bạn của Lý Thiệu Đường truyền tin tới, ông ta đã có cơ hội vượt biên từ Quảng Châu đi Hồng Kông. Người bạn đó dặn trước, ông không được mang theo trẻ con. Lý Thiệu Đường cân nhắc thiệt hơn, không biết nên làm thế nào trong tình cảnh này.
Người bạn đó lại giúp ông ta đi nghe ngóng tình hình, biết được ỡ ngay thôn bên cạnh có một người phụ nữ vừa sinh con ra thì đứa trẻ không may chết yểu, mà người phụ nữ đó lúc nào cũng thừa sữa. Tư Tồn được gửi vào nhà đó, chắc chắn lớn lên sẽ béo trắng khỏe mạnh.
Hai chữ “sữa mẹ” đã khiến Lý Thiệu Đường mềm lòng. Ông nghĩ, thà đem con gái gửi cho người đó để được bú ẵm đủ đầy, còn hơn để nó theo mình uống nước cháo cầm hơi. Đợi tới khi Tư Tồn cứng cáp hơn một chút, ông ta cũng tạo dựng được sự nghiệp ở Hồng Kông, lúc đó đón con bé về với mình vẫn chưa muộn.
Lý Thiệu Đường hạ quyết tâm để người bạn bế con đi. Ông ta cũng không dám hỏi con mình sẽ được gửi vào nhà nào, chỉ sợ bản thân mình sẽ thay đổi quyết định. Ngày Tư Tồn bị bế đi, bầu trời vô cùng ảm đạm. Tư Tồn còn bé tí đã biết nhận người Cô bé bị người lạ bế đã khóc ầm ĩ, hai tay huơ huơ về phía ba như mong muốn ba bế mình lại. Lý Thiệu Đường cố nén nỗi đau quay lưng đi, nhưng tiếng khóc của con gái đã vĩnh viễn khắc sâu trong kí ức. Ông đã lập lời thề, đến Hồng Kông nhất định phải gây dựng cơ đồ, kiếm thật nhiều tiền, nhanh chóng ổn định cuộc sống để đón Tư Tồn về với mình.
Thế nhưng, người tính không bằng trời tính. Thời gian trôi qua, Tư Tồn được nuôi lớn bằng nguồn sữa mẹ mát lành, Lý Thiệu Đường cũng thuận lợi đến được Hồng Kông. Vài năm sau, Cách mạng Văn hóa nổ ra, một người bị gán mác “hữu khuynh”: “tội đồ”: “phản bội” như ông đâu còn cơ hội để trở về quê hương được nữa. Ông chỉ còn cách đi càng xa càng tốt, từ Hồng Kông tới châu Âu, rồi tới tận đất Mỹ xa xôi.
Sau hơn mười năm vật lộn, Lý Thiệu Đường đã trở thành Chủ tịch một công ti lớn ở Mỹ. Bao năm đơn độc vùng vẫy trên thương trường khiến tính cách ông thay đổi nhiều, ở New York, ông nổi tiếng trong giới Hoa kiều về cách giải quyết vấn đề. Cách giải quyết vấn đề của ông không phải là đàm phán hòa bình, mà là bắt người khác tuân phục mình. Nhờ vào điều đó, ông ta trở nên giàu có. Nhưng tận sâu trong trái tim, ông cũng là người rất đau khổ. Ông không quên được người vợ hiền vì mình mà chết thảm, càng không quên được đứa con gái lưu lạc ở một vùng quê nhỏ bé tận Trung Hoa. Ông ta có dùng trọn kiếp này cũng không thể trả hết món nợ với vợ và con gái.
Tin Trung Hoa đại lục tiến hành cải cách mở cửa nhanh chóng lan tới nước Mỹ. Lý Thiệu Đường ngay lập tức tìm về thành phô" X với danh nghĩa trở về kiến thiết quê hương. Sau lần gặp mặt đầu tiên, ông và Thị trưởng Mặc như đã quen biết nhau từ lâu. Sau vài lần tiếp xúc, ông không chỉ quyết định đầu tư vào thành phố X mà còn thực hiện một việc quan trọng khác, đó là ủy thác cho Thị