
Chàng Giảng Viên Cầm Thú Của Tôi
Tác giả: Tam Ngôn Nhị Phách
Ngày cập nhật: 03:53 22/12/2015
Lượt xem: 134831
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/831 lượt.
t bao thư lớn tới gửi, dặn đi dặn lại là nhớ chuyển hộ. Thấy thế, Hưng Ca tái mặt, cảm thấy sống dở chết dở, không nói ra lời. Đợi cho Đại Lang đi rồi, chàng ta mới mở bao thư ra xem thấy bên ngoài gửi cho bà Tiết, xé ra thấy một chiếc khăn lụa hồng đào, lại có một cái trâm nữa chứ. Trong thư thì viết: “Có hai vật mọn, phiền bà đưa giúp cho nương tử thương yêu Tam Xảo làm kỷ niệm. Hẹn gặp nhau vào mùa xuân năm tới. Trân trọng, trân trọng”.
Hưng Ca cả giận, xé vụn tờ thư ném xuống sông, cầm chiếc trâm ngọc kẹp vào ván thuyền bẻ gãy làm đôi. Xong rồi lại nghĩ: “Mình hồ đồ quá, sao không giữ lại làm chứng cớ?” Bèn nhặt lại trâm và khăn lên, gói lại một gói rồi giục cho thuyền đi.
Đi gấp về đến quê, vừa nhìn thấy đầu nhà mình bỗng rơi nước mắt nghĩ bụng: “Mới đầu vợ chồng yêu thương nhau biết bao nhiêu, chỉ vì mình tham cái lợi bằng đầu ruồi mà vứt bỏ nàng tuổi trẻ ở nhà vò võ cho nên mới ra nông nỗi này. Bây giờ hối hận thì sao kịp!”. Trên đường đi thì nóng lòng chỉ mong chóng tới, nay tới nhà rồi thì vừa hận, vừa đau cứ đi một bước lại dừng một bước. Vào đến nhà, đành nhẫn nhịn miễn cưỡng gặp nhau. Hưng Ca lẳng lặng chẳng nói năng gì. Tam Xảo có tật giật mình, tự thấy xấu hổ quá, không dám bắt chuyện.
Cất hành lý xong, Hưng Ca bảo đi thăm ông bà nhạc rồi lên thuyền ở một đêm, sáng hôm sau về nói với Tam Xảo rằng: “Cha mẹ nàng đều bị bệnh, rất nguy cấp. Tối qua tôi phải ở lại trông nom ông bà một đêm. Họ chỉ nhớ nàng, muốn gặp mặt. Tôi đã thuê sẵn kiệu để trước cửa, nàng mau đi về đi, tôi sẽ đi sau”.
Tam Xảo thấy chồng suốt đêm không về, thấy nghi nghi. Đến lúc thấy nói cha mẹ mình bị bệnh thì tưởng là chồng nói thật bèn cuống quýt đưa chìa khóa rương hòm cho chồng rồi gọi một vú già đi theo lên kiệu ngay. Hưng Ca gọi vú già lại, lấy trong tay áo ra một phong thư bảo đưa cho ông bố vợ và dặn: “Đưa thư xong, vú hãy theo kiệu về ngay!”.
Tam Xảo về nhà, thấy cha mẹ đều khỏe mạnh cả thì giật mình kinh hãi. Ông già Vương thấy con gái tự nhiên không gọi mà đến cũng thấy sợ. Bèn lấy phong thư từ tay bà vú ra đọc thì té ra là tờ ly hôn. Giấy viết thế này:
“Người viết giấy ly hôn là Tưởng Đức, người huyện Tảo Dương phủ Tương Dương. Từ nhỏ đã nhờ mối lái mà lấy Vương Thị làm vợ. Nhưng sau khi vắng nhà, vợ tôi có nhiều lỗi lầm, phạm vào điều thất xuất. Do nghĩ tình chồng vợ, không nỡ nói rõ làm gì, nay tôi bằng lòng đem trả về nhà mẹ đẻ, cho tùy ý cải giá, không có ý kiến gì khác. Ly hôn thị thực”.
Trong bao thư còn có một chiếc khăn tay hồng đào và một cây trâm bị bẻ gãy. Ông Vương xem rồi sợ hãi, gọi con gái ra hỏi chuyện vì sao. Tam Xảo nghe nói bị chồng bỏ thì không nói gì cả chỉ sụt sịt khóc. Ông Vương hầm hầm đến ngay nhà con rể. Tưởng Hưng Ca vội ra vái chào. Ông Vương đáp lễ rồi hỏi: “Hiền tế, con gái ta đường đường chính chính đến làm vợ anh, nay nó có tội gì mà anh lại bỏ nó? Anh phải nói cho rõ”.
Hưng Ca nói: “Tiểu tế không tiện nói, xin cứ hỏi lệnh ái sẽ biết”. Ông Vương nói: “Nó chỉ toàn khóc, có chịu mở miệng ra đâu, làm ta cứ điên cả ruột. Con ta từ nhỏ đã thông minh hiểu biết ngờ đâu nó lại phạm tội. Nếu tội cũng nhỏ thì hiền tế hãy nể mặt ta mà tha thứ cho nó. Các con định hôn với nhau từ khi bảy, tám tuổi, sau khi thành vợ thành chồng chưa hề cãi cọ nhau, thế là rất hòa thuận. Bây giờ con đi buôn xa về, mới ở nhà được năm ba ngày thì có chuyện gì chướng tai gai mắt con chứ? Con mà độc ác như vậy thì người ta cười cho, rằng con bạc nghĩa vô tình”. Hưng Ca nói: “Cha là bề trên, con không dám nhiều lời. Nhà con có cái áo trân châu là vật tổ tiên truyền lại, vẫn để cho Tam Xảo giữ, giờ chỉ hỏi chiếc áo đó còn không? Nếu còn thì không nói nữa, nếu không còn thì xin đừng trách làm gì?”.
Ông Vương vội quay về nhà, hỏi con gái: “Chồng con chỉ hỏi cái áo trân châu con giữ, con đem cho ai rồi?” Tam Xảo nghe hỏi đúng chuyện quan trọng nhất thì xấu hổ đỏ bừng cả mặt, không nói được gì, rồi khóc òa lên khiến Vương ông chẳng hiểu ra sao.
Bà Vương khuyên: “Con đừng có khóc mãi như thế, hãy nói sự thực thế nào cho cha mẹ biết để còn phân giải”. Tam Xảo vẫn không chịu nói, cứ nức nở khóc mãi không thôi. Ông Vương đành đưa tờ giấy ly hôn với chiếc khăn và cây trâm bị gẫy cho bà Vương bảo cứ dỗ dần rồi hỏi cho rõ chuyện.
Tam Xảo ngẫm nghĩ không hiểu sao chiếc áo trân châu lại bị bại lộ. Còn cái khăn và cây trâm gãy là ở đâu ra?
Nghĩ một hồi rồi bỗng nói: “À hiểu rồi, cái trâm gãy là tỏ ý cắt đứt tình cảm, còn cái khăn này là ý muốn ta tự tận đây. Chàng nghĩ đến tình vợ chồng nên không nỡ nói thẳng ra để giữ cho ta khỏi tai tiếng. Thương thay bốn năm ân ái mà nay quyết tuyệt một ngày. Đó chỉ là tại ta có tội, phụ tấm ân tình của chồng ta. Bây giờ có sống ở trên đời này cũng chẳng ra gì, chi bằng chết đi cho xong”.
Bà Vương biết ý con muốn chết bèn khuyên rằng: “Con nghĩ cạn lắm, mới hơn hai mươi tuổi đầu, bông hoa còn chưa nở trọn, việc gì phải chết. Biết đâu chồng con hồi tâm nghĩ lại. Mà nếu nó không nghĩ lại, quyết bỏ thật thì người đẹp đẽ như con lo gì không có ai cầu. Con cứ yên