Disneyland 1972 Love the old s

Tổng hợp những câu chuyện hay nhất

Đông Cung

Đông Cung

Tác giả: Phỉ Ngã Tư Tồn

Ngày cập nhật: 03:58 22/12/2015

Lượt xem: 1341339

Đang đọc: 11 độc giả

Bình chọn: 9.00/10/1339 lượt.

lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.
Dường như tôi thấy mình đang đứng bên bờ sông Quên, bàn chân đã chạm vào trống rỗng hư không, gió vách núi lay tôi chực đứng không yên, đong đưa như thể sẽ rơi xuống bất cứ lúc nào, gió vẫn giật áo quần bay phần phật, ống tay áo như một lưỡi dao mỏng dính, không ngừng quẹt trên cánh tay. Chàng không dám dồn ép nữa, tôi bảo chàng rằng: “Trước kia ta nhìn lầm chàng, giờ đây mới sinh ra nước mất nhà tan, là trời phạt ta phải chịu nỗi này.” Tôi nhấn từng chữ: “Muôn đời muôn kiếp, rồi mãi mãi về sau ta sẽ quên được chàng!”
Dường như tôi thấy mình ngồi trong đêm tân hôn ngày đó, chàng nhấc khăn voan trùm đầu của tôi, khăn voan vừa được nhấc lên, tôi chỉ thấy trước mắt sáng lóa, nến lung linh khắp phía ánh trên khuôn mặt, trên thân người chàng. Chàng mặc bào đen, trước ngực thêu rất nhiều những hoa văn tinh xảo. Mấy tháng trước đó, dưới sự đôn đốc của Vĩnh Nương, tôi đã thuộc làu làu như cháo chảy quyển “Lễ Điển”, giờ đã hiểu đấy là áo huyền, huân xiêm, thêu 9 chương. 5 chương trên áo có rồng, núi, chim trĩ, lửa, tôn ri; 4 chương trên xiêm có rau tảo, gạo trắng, búa, phất. Áo trung đơn bằng sa trắng, cổ áo lễ có thêu hoa văn nửa đen nửa trắng, viền xanh đen, có tự và tà áo. Dây lưng to bản da tê, móc vàng sáng chói, đai trắng thuần trong không màu son, cũng vải lông lấy màu đỏ thắm và xanh lục, khuy đan bện. Hoa văn tùy theo màu áo, 2 chương gồm lửa và núi cũng vậy.
Chàng mặc áo cổn mũ miễn của dịp đại lễ, ngọc trắng chín chuỗi kết thành dải, màu xanh khoáng như băng lụa phủ qua tai, cài trâm bằng sừng tê, tôn lên vẻ khôi ngô tuấn tú, dung mạo đường đường.
Lúc đó, tôi tưởng đấy là đầu tiên đôi ta gặp gỡ. Vậy mà chẳng hay, đôi ta đã từng gặp nhau nơi đất Tây Lương dưới ánh trăng ngập tràn.
Sau cùng tôi nhớ, khoảnh khắc mình vừa cắt lìa dải dây lưng, lệ đã tràn trong đôi mắt chàng.
Nhưng muộn rồi, chúng ta cãi vã đã 3 năm, vậy mà vẫn phải lòng nhau. Đây là sự trừng phạt của thánh thần dành cho những kẻ đã từng uống nước con sông Quên, đáng lẽ ra đôi ta nên mãi mãi chia xa, mãi mãi không được phép nhớ về nhau.
Tôi yên lòng nhắm mắt, cơ thể rơi xuống chóng vánh, chờ đợi thân mình vỡ vụn.
Thế rồi cơ thể bị hẫng giữa chừng, cơn đau buốt trong tưởng tượng chưa kịp đến, tôi đã mở mắt nhìn, cánh tay mát rượi của A Độ đang bao bọc tôi, tuy A Độ gắng sức nhảy vọt lên, song trên đời này không một ai có thể chịu được lực tổn thương lớn đến thế, hình như tôi còn nghe rõ từng tiếng xương vỡ vụn của A Độ, nàng ấy lấy thân mình làm tấm đệm thịt cho tôi đáp đất. Trước mắt tôi là máu từ mũi, từ tai, từ mắt A Độ ứa ra, tôi gào to: “A Độ!” Hai đùi đau nhói, không tài nào đứng lên được, tôi vật lộn bò dậy, luống cuống muốn ôm lấy A Độ, nhưng hơi chạm vào lại càng đau buốt, vẻ mặt A Độ trông khổ sở, song đôi mắt đen láy vẫn nhìn tôi, cái nhìn điềm tĩnh trước nay chưa từng thay đổi, không một mảy may trách móc. Như thể trông tôi đang dở trò nghịch ngợm nào đó, hoặc như lúc trước kia, tôi từng dắt nàng ấy chuồn xuống phố. Tôi ôm A Độ, thì thào gọi tên.
Tôi thừa hiểu, đã từ lâu, Tây Lương không còn để về. Tôi chỉ muốn nàng ấy cứ bỏ chạy trước đi, nhưng tôi có lỗi với A Độ, tôi hiểu, A Độ sẽ không bỏ lại mình tôi lẻ loi giữa cuộc đời này. Mà tôi cũng hiểu, tôi không thể để A Độ một mình bơ vơ trên thế gian này. A Độ nhắm mắt, mặc kệ tôi có gọi thế đi chăng nữa, A Độ cũng không hay.
Tôi nghe tiếng cổng thành đẩy mở kèn kẹt, binh lính đổ về phía chúng tôi, tôi biết bọn chúng vẫn muốn lôi tôi về với kiếp sống khốn khổ, chúng muốn lôi tôi về chốn Đông Cung cô quạnh. Nhưng tôi không muốn chịu đựng những khổ sở ấy thêm nữa.
Tôi bảo A Độ: “Chúng ta cùng về Tây Lương thôi.”
Thế rồi tôi nhặt thanh đao của A Độ lên, lưỡi đao đã sửt mẻ nhiều chỗ sau khi A Độ ra sức chém vào then sắt, tôi cắm ngập thanh đao trong lồng ngực mình, vậy mà chẳng hề đau. Có lẽ toàn bộ đớn đau khổ sở ở đời này, tôi đều đã trải qua, chết có đáng gì nữa đâu.
Máu tuôn rơi, đôi bàn tay vấy máu nắm chặt tay A Độ, từ từ nhoài người nằm bên nàng ấy. Tôi biết, thế là cuối cùng chúng tôi đã có thể về nhà.
Những cảm giác những ấm áp dần lìa xa tôi, bóng tối bủa giăng. Dường như tôi đang trông thấy Cố Tiểu Ngũ, chàng phi ngựa chạy về phía này, tôi biết chàng chưa chết, chàng chỉ đi bắt 100 con đóm đóm cho tôi mà thôi.
Giờ thì tôi muốn chính tay chàng thắt cho tôi chiếc dây lưng của mình, và đôi ta mãi không chia lìa.
Tôi khẽ mỉm cười, trút hơi thở cuối cùng.
Trên mảnh đất hoang vu, dường như có ai đang hát bài ca nọ:
“Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, ngắm nhìn ánh trăng. Ô thì ra không phải nó đang ngắm trăng, mà đang đợi cô nương chăn cừu trở về… Có con cáo nhỏ ngồi trên cồn cát, ngồi trên cồn cát, sưởi nắng. Ô thì ra không phải nó đang sưởi nắng, mà đang đợi cô nương cưỡi ngựa đi qua…”
Thì ra con cáo nhỏ ấy đã không đợi được người con gái nó mong hoài bấy lâu.