
Tác giả: Phỉ Ngã Tư Tồn
Ngày cập nhật: 03:58 22/12/2015
Lượt xem: 1341333
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/1333 lượt.
r>Mễ La nghe tiếng sáo, đặt phịch hũ rượu xuống, vọt lên bàn, nhón chân trần nhảy múa. Dáng dấp tỷ ấy mềm mại khêu gợi, buông mình trong khúc nhạc như thể toàn thân không xương, lại vô cùng yêu kiều. Tiếng chuông vàng trên cổ tay cổ chân sàn sạt như cơn mưa rào, đắm chìm trong âm điệu của sáo, lại như con rắn vàng mặc sức nhảy múa. Đám thương nhân Ba Tư ấy đều vỗ tay tán thưởng, Mễ La nhẹ nhàng chườn xuống bên bàn, bắt đầu những điệu múa quay mòng mọng, vây lấy 3 người chúng tôi,.
Từ lúc rời Tây Lương, tôi chưa từng được tùy ý buông tiếng cười sảng khoái như thế. Động tác của Mễ La thanh tao linh động lại mềm dẻo, tựa một dải lụa tơ tằm, xoắn chặt lấy toàn thân tôi, rồi lại tung tăng dập dờn như cánh bướm. Tôi học theo dáng dấp của tỷ ấy, dùng tay phối hợp với nhạc đệm múa máy kiểu này kiểu nọ, chỉ có thân người là không được nửa phần nhẹ nhàng khéo léo như thế. Mễ La xoay vài vòng, A Độ rút từ trong áo ra một cây khèn tất lật đưa tôi, lúc ấy tôi đột nhiên mừng rỡ, cũng thổi vài điệu hùa theo.
Hắn vừa nói “vâng”, tôi đã cảm nhận thấy cơn nhàm chán. Được cái nhóm người Ba Tư lại bắt đầu ca hát, giai điệu du dương mang nỗi buồn thăm thẳm rung động lòng người. Mễ La uống thêm một chén rượu, biết chúng tôi nghe không hiểu ca từ, tỷ ấy dùng chất giọng phổ thông ngọng ngịu, khẽ hát cho chúng tôi nghe. Thì ra, những người thương nhân ấy đang hát rằng:
“Quê tôi có con trăng sáng
trăng tròn rồi khuyết, sao cố hương vẫn khuất bóng.
Đất mẹ tôi có dòng sông sao
sông sao xán lạn, sao đất mẹ khó về.
Gió kia cũng ôn hòa, gió thổi trên đất quê tôi.
Ngày kia vẫn đẹp tươi, ngày chiếu rọi quê nhà tôi.
Rồi đây biết non sông nào chôn cất tôi.
Rồi đây biết phương trời nào gửi tôi về….”
Tôi cất lời hát vài câu theo Mễ La, không nhịn được ủ ê, nghe những người Hồ ấy hát đến âu sầu, bất giác lại uống cạn một chén rượu. Bùi Chiếu khẽ gật đầu, nói rằng: “Nỗi niềm nhớ quê hương ai mà chẳng có. Những thương nhân người Hồ này nhớ cố hương đến thế, vì sao không quay trở về đi?”
Tôi thờ dài: “Trên đời này không phải ai ai cũng giống như ngươi, từ lúc sinh ra đến giờ chưa từng phải rời xa đất nước mình, bọn họ xa xứ, âu cũng là bất đắc dĩ thôi.”
Bùi Chiếu trầm ngâm một lúc lâu, thấy tôi lại đổ đầy chén rượu, không kìm được nói: “Công tử uống nhiều rồi.”
Tôi hùng hồn nói: “Lấy gì giải sầu? Chỉ có rượu thôi!”
Thấy Bùi Chiếu nhìn tôi dường như rất đỗi kinh ngạc, tôi chìa 3 ngón tay ra, nói: “Đừng cho rằng ta tài giỏi gì, thực ra ta thuộc tổng cộng có 3 câu thơ, câu vừa nãy là 1 trong 3 đấy.”
Cuối cùng hắn bật cười.
Rượu Mễ La bán quả nhiên lợi hại, tôi uống có phần quá đà, lúc ra khỏi quán, mặt đất dưới chân nhũn mềm, như thể đang giẫm lên đụn tuyết trên sa mạc. Mưa vẫn đang rơi, sắc trời đổ xuống chạng vạng, nơi mông lung xa xăm có làn mưa đang xoay vần trắng xóa, đem tất thảy thành quách chứa dầy đặc gần 10 vạn hộ dân, đem cả phồn hoa mỹ lệ 2 bên bờ kênh đào, tất thảy đều ấp ủ trong chiếc lồng của ngày mưa. Gió rắc hạt mưa bụi lất phất lên gò má nóng hầm hập, chợt gặp được cơn mát lạnh thân thương, tôi chìa tay đón những bụi nước lấm tấm dường như là bụi lưu ly, có giọt mưa đọng lại trong lòng bàn tay, mưa khẽ khàng va vào da thịt dậy lên cơn ngứa ngáy. Nơi xa xăm thấp thoáng có đốm lửa từ nhà dân, dập dờn đan xen mà lóe sáng, tửu lầu quán trà nơi lề đường phố thị đã sớm chong đèn sáng trưng. Mà thân đò trên con kênh kia cũng khoác lên mình một chuỗi những đèn lồng đỏ, sợi khói vấn vương toát ra từ bếp nhà nào, quẩn quanh trên mui đò trong làn mưa rả rích.
Thượng Kinh đẹp nhất trong cơn mưa phùn, nét đẹp tựa tranh vẽ ấy dù cho họa sư ở Tây Lương chúng tôi có tài năng đến mấy, cũng không thể mường tượng ra được cảnh sắc này, phồn hoa này, ấm nhuần này, nơi đây tựa như thành đô của thiên hạ, tựa như cảnh tiên nơi mà các vị thần trên trời đã đặc cách chiếu cố tạo nên. Thiên triều của Thượng Kinh chính là đây, đô thị náo nhiệt nhất hưng thịnh nhất thiên hạ cũng chính là đây, vạn nước bái kiến, vạn dân cảm mến, nhưng mà tôi biết, tôi không quên được Tây Lương, dẫu cho Thượng Kinh có đẹp đẽ dường nào, nó đâu có phải là Tây Lương của tôi.
Bùi Chiếu tiễn tôi về đến tận cửa bên hông của Đông Cung, thấy chúng tôi lẩn vào xong xuôi, hắn mới quay gót bước đi. Tôi cảm giác mình đã chếnh choáng say, lúc ấy men rượu đã dâng đầy, nhịn không nổi lờm lợm buồn nôn. A Độ vỗ nhẹ lưng tôi, chúng tôi ngồi chồm hỗm trong hoa viên được một lúc lâu, gió thổi cho tỉnh táo hắn rồi mới rón rén mò về trong cung.
Vừa bước qua cửa điện, tôi đã choáng váng cả người, bởi lẽ Vĩnh Nương đang đợi tôi ở trong phòng. Bà ấy vừa nhìn thấy tôi, chẳng chỉ trích chuyện tôi lại lẻn ra ngoài đi chơi, mà cũng không trách móc chuyện cả người tôi xộc mùi rượu, càng không phê bình tôi vận đồ nam, chỉ sa sầm nét mặt, hỏi: “Thái tử phi có biết trong cung xảy ra chuyện rồi không?”
Tôi không thể không hỏi: “Xảy ra chuyện gì thế?”
“Đứa con của Tự Nương…không còn nữa rồi.”
Tôi giật mình, khuôn mặt của Vĩnh Nương vẫn hoàn toàn