
Mạnh Mẽ Chiếm Đoạt Cô Gái Chớ Càn Rỡ
Tác giả: Trần Ai
Ngày cập nhật: 03:14 22/12/2015
Lượt xem: 134734
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/734 lượt.
khác mà ở nhà chờ đến tuổi đi học tiểu học. Giáo hội tổ chức một lớp nhỏ, cứ thứ Bẩy hàng tuần lại kể một vài câu chuyện thánh kinh cho lũ trẻ con cái người trong hội nghe. Lần nào cô cũng đi nghe. Cô nhìn những con chữ trên hình vẽ, hỏi cô giáo đang dạy họ chữ này đọc là gì, có nghĩa gì, làm sao để phân biệt một số chữ. Điều khiến cô vui mừng nhất là cô giáo đó biết chơi đàn phong cầm. Lúc giáo đường không có người, Giang Nguyệt thường ở lại đây sờ mó cây phong cầm, nhìn ngắm những bản nhạc phổ, Giang Nguyệt bé nhỏ luôn ôm ấp một mong ước nhỏ, nếu có thể chơi giỏi đàn phong cầm, sau này cô có thể đàn phong cầm khi bọn họ hát xướng ca, như vậy sẽ khỏi phải lo bị họ đuổi đi.
Ngày qua ngày, đứa bé bị bỏ rơi ngày nào là cô đã được bảy tuổi.
Khi Giang Nguyệt được khoảng bảy tuổi rưỡi thì có hai chuyện xảy ra, chẳng hề có điềm báo nào, nhưng đã thay đổi hoàn toàn cuộc đời cô.
Bà Liễu qua đời.
Giang Quân xuất hiện.
Người này từ đâu "chui" ra vậy? Giang Nguyệt không hề hay biết.
Mùa hè năm ấy, huyện Phượng Hoàng có lốc xoáy và lũ lụt qua đi. Lốc xoáy và lũ lụt qua đi, bà Liễu liền tháo các tấm rèm của sổ giáo đường xuống giặt. Nóc giáo đường vừa cao vừa sâu, cánh cửa sổ lại dựng đứng, rèm cửa từ trên cao rủ xuống. Bà Liễu bắc thang dựa vào tường, cẩn thận leo lên. Đáng tiếc là có cẩn thận mấy đi chăng nữa vẫn bị hụt chân và ngã xuống. Người bị cao huyết áp, ngã một cú như thế, nằm một đêm rồi ra đi.
Con gái bà Liễu cùng những người trong giáo hội đến giúp lo liệu hậu sự cho bà. Lễ tang được tiến hành một cách có trình tự dưới sự giúp đỡ của mọi người. Ngày đi chôn, Giang Nguyệt dậy rất sớm, nhưng người lớn đều bảo đường lên nghĩa trang rất xa xôi, bảo cô đừng đi cho đỡ rắc rối, thế nên Giang Nguyệt phải ở lại.
Mặt trời lên cao dần, không khí nóng nực đến khó chịu. Cô trốn trong giáo đường, thứ ánh sáng nhập nhoạng lúc sáng lúc tối khiến cô sợ hãi và lạnh lẽo. Cô nghe thấy tiếng ve râm ran ngoài cửa sổ, nhưng trong phòng thì tĩnh mịch như tờ. Cô đặt tay lên những phím đàn, không dám ấn dù chỉ một phím. Chẳng biết bao lâu sau, bên ngoài vang lên tiếng bước chân, tiếng nói chuyện huyên náo. Cô thầm nhủ, chắc là họ đã về.
Cô cúi đầu, mặt dán vào nắp cây đàn lạnh ngắt. Liệu họ có phát hiện ra không thấy cô đâu không? Liệu họ có đi tìm cô không? Có ai nhớ đến cô không? Cứ nghĩ như vậy khiến cô bật khóc. Cô không đau lòng, chỉ cảm thấy sợ hãi.
Đột nhiên "két" một tiếng, cánh cửa giáo đường mở ra. Cô giật mình. Vội vàng ngẩng đầu. Bước vào là một người đàn ông, cô chưa gặp bao giờ.
Người ấy đi xuyên qua hàng ghế dài, đi thẳng lên bục, những ngón tay lướt qua những lưng ghế nâu trầm. Khi còn cách bục giảng khoảng bón hàng ghế, người ấy nhìn thấy cô. Một con nhóc bé xíu, đôi mắt mở to, hoang mang và khiếp sợ nhìn anh. Có thể vì không ngờ trong này có người, hoặc cũng có thể vì thích đùa nên anh cũng trợn tròn mắt nhìn con bé. Sau đó anh mỉm cười đi về phía cô: "Chú làm cháu sợ à?"
Cô ngồi dựa sát vào cây đàn, nhẹ nhàng hỏi: "Cháu có biết chơi đàn không?"
Cô khẽ gật đầu.
"Cháu có thể đánh cho chú nghe không?"
Cô lại gật đầu.
Lúc ấy cô vẫn chỉ biết dùng một bàn tay phải đánh ở khu vực C, cô đánh bài thơ mà mình thích nhất.
Tiếng nhạc ấy vô cùng thê lương, anh nghe rất quen tai liền hỏi: "Cháu có biết hát không?"
Cô gật đầu, tiếng hát non nớt vang lên cùng tiếng đàn: "Con cừu đi lạc, mày ở nơi đâu? Chủ nhân đang tìm kiếm mày. Một trăm con cừu bị thiếu mất một, phải chăng chính là mày? Phải chăng chính là mày?"
Câu cuối "phải chăng chính là mày" vang vọng và nhẹ nhàng đi vào trái tim anh.
Anh lây đôi bàn tay che mặt, ngồi im lìm ở hàng ghế gỗ đầu tiên.
Cô đứng dậy đi xuống, quỳ trước mặt anh.
Một cô bé, mặc váy liền màu xanh với cái cổ lá sen màu trắng, khuôn mặt trắng ngần và tròn trịa như trái táo, trông giống như một cọng hành còn xanh, thật sự rất giống. Anh không nhịn được cười, tâm trạng u ám ban nãy đã hoàn toàn biến mất.
Anh khen cô đàn hay, hát cũng hay và hỏi cô tên là gì.
Đứa trẻ nào được khen cũng cảm thấy thích thú cả, thế nên Giang Nguyệt cũng chẳng để tâm đến cái tên đáng ghét của mình nữa.
"Cháu tên là Mala!", cô nghiêng đầu nói, "Thế chú là ai?"
"Xin chào Mala, chúng ta làm quen một chút nhé, chú tên là Giang Quân!" Anh chìa tay ra.
Cô cũng chìa tay ra, bắt tay anh vẻ hiểu biết, miệng nghi hoặc hỏi: "Tướng quân à? Chú đi đánh trận sao?"
Anh phì cười, lắc đầu nói: "Chú không phải là tướng quân đi đánh trận, là cái này…", anh viết lên tay cho cô xem.
"Ờ…" Cô gật gù như thể đã hiểu ra, rồi nói: "Cháu là Mala chứ không phải "Ma" trong từ "ngựa" mà là "Ma" này cơ!" Cô kéo tay anh ra, viết tên mình lên đó.
Giang Quân thấy rất thú vị, cười nói: "Lần sau cháu có thể nói với người khác, cháu là Mala, Ma trong "mã não". Cháu mấy tuổi rồi? Học lớp mấy?
"Cháu bảy tuổi…chưa đi học ạ!" Giọng của Giang Nguyệt nhỏ xíu khi nói đến vế sau. Nhưng chẳng mấy chốc cô đã ngẩng đầu hỏi: "Còn chú thì sao?"
"Chú á? Chú cũng không đi học!"