
Tác giả: Ngải Mễ
Ngày cập nhật: 03:23 22/12/2015
Lượt xem: 1341505
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/1505 lượt.
i thi được thì người đó đi.
Vừa nghe đến mấy chữ “Harvard Yenching” là tinh thần Ngải Mễ lại sục sôi. Không biết có nên tham gia không nhỉ? Thử sức xem sao? Nếu chỉ dựa vào kết quả bài thi thì cũng ổn. Cổ nhân có câu: Là lừa hay ngựa, phải dắt ra xem. Xem ra cũng phải dắt mình ra xem sao.
Các giáo viên trẻ trong khoa đều nói: “Ngàn năm có một, ngàn năm có một!” Không phải nói suất học bổng của Harvard Yenching là ngàn năm có một mà ý muốn nói rằng, ngàn năm mới có dịp khoa tổ chức thi minh bạch như vậy, vì trước đây có suất đi học ở đâu đều là khoa giới thiệu hoặc tính theo thâm niên công tác, lúc nào cũng kín như bưng, những kẻ vô danh tiểu tốt như Ngải Mễ không phải là vợ chủ nhiệm khoa, cũng chẳng phải con gái của giám đốc nhà xuất bản trường Đại học R, chắc chắn là không đến lượt, thế nên lần này Ngải Mễ quyết định tận hưởng tính minh bạch của khoa và thế là đã đăng ký.
Đăng ký rồi cô lại thấy lo, nhỡ mình không thi được thì biết làm sao? Nếu một ngày nào đó Allan muốn đến tìm mình, trong khi mình lại sang Harvard Yenching thì khác gì núi sông cách trở? Hơn nữa một người có lòng tự trọng cao như anh ấy, không được sang Harvard học trong khi mình lại được sang, liệu anh ấy có vì chuyện đó mà bỏ cuộc hay không? Có lẽ tốt nhất là mình nên giữ tấm thân trong sạch, không dính dáng gì đến vết nhơ học Harvard thì hơn.
Nhưng rồi cô lại nghĩ, đã thi cử gì đâu, nếu thi cũng chắc gì đã đỗ, việc gì phải lo sớm như vậy. Cùng lắm là đỗ rồi nhưng không đi, như thế cũng vẻ vang biết bao. Giành được suất học bổng của Harvard Yenching dĩ nhiên là tự hào rồi, nhưng nếu thi đỗ mà không đi học lại càng tự hào hơn chứ.
Hơn nữa Allan đã từng hứa với cô rằng không bao giờ kết hôn trước cô, không bao giờ có người yêu trước cô. Dĩ nhiên lời thề này là do cô ép anh nói nhưng dù gì anh cũng thề rồi, anh đã hứa điều gì thì chắc chắn sẽ thực hiện.
Trong năm nội dung thi, thế mạnh của Ngải Mễ là đọc, dịch và nghe nói.
Đọc là thế mạnh do từ lâu các bài đọc trong tiếng Anh đã có kiểu thi trắc nghiệm. Ngải Mễ rất biết ơn người đã phát minh ra kiểu thi trắc nghiệm này, chắc chắc là phát minh cho những người làm gì cũng hậu đậu, vô tâm như cô. Bạn thử nghĩ mà xem, mấy đáp án đều đã đưa ra hết rồi, chỉ cần khoanh tròn là xong, còn việc nào dễ hơn việc khoanh tròn? Đến AQ cũng biết khoanh. Nếu bắt Ngải Mễ viết ra ý chính của bài thì rất có thể cô sẽ lạc đề, có khi lại viết sai mấy chữ cũng chưa biết chừng, nhưng nếu bắt cô lựa chọn một đáp án đã được người khác viết thì kể cả không hiểu, cô vẫn làm được tám mươi, chín mươi phần trăm.
Khi còn đi học, bạn bè cùng phòng đều ngưỡ mộ số cô may mắn, vì có một số đề, bốn câu chọn một, mọi người đều chẳng biết câu nào, toàn đoán mò, trong khi Ngải Mễ toàn mò đúng, còn người khác lại mò sai. Vương Hân, bạn cùng phòng với Ngải Mễ, thường nói cô có “số ăn cứt chó”, ở quê Vương Hân thường dùng cụm từ này để nói về người có số may mắn đến mức khó tin.
Dịch là thế mạnh của cô, có thể là vì bố mẹ cô, một người chuyên về tiếng Anh, một người chuyên về tiếng Trung. Ngay từ khi Ngải Mễ còn rất nhỏ, mẹ cô đã “tắm” tiếng Anh cho cô. Không những đặt cho cô một cái tên không ra Tây cũng chẳng ra Tàu, mà còn cố gắng nói tiếng Anh với cô, trong nhà chỗ nào cũng dán rất nhiều từ vựng tiếng Anh, dán vào bàn là “table”, dán vào cửa sổ là “window”, dán vào trước cửa ra vào từ “come”, mặt sau của cửa thì dán từ “go”…
Hồi nhỏ Ngải Mễ cũng rất thích phương pháp học dán giấy kiểu này, thường viết chữ “Dad” nghiêng ngả rồi dán lên lưng bố, khiến có hôm bố cô lên lớp mà còn mang theo chữ “Dad” sau lưng giảng bài thao thao bất tuyệt, bị sinh viên phát hiện ra rồi cả lớp cười nghiêng ngả. Có một lần, Ngải Mễ hớt hải chạy đi mách mẹ rằng “Dad” bị ngã từ trên nhà xuống đất, khiến mẹ cô được một phen suýt ngất, cuối cùng mới phát hiện ra là mẩu giấy ghi chữ “Dad” bị bay từ trên ban công nhà xuống đất rồi.
Còn bố Ngải Mễ thì rất tích cực “tắm” tiếng Trung cho cô, ngày ngày ông đều bắt cô học thuộc văn thơ cổ, luyện thư pháp, rồi còn phải viết nhật ký nữa, hơn nữa ngày nào cũng kiểm tra xem Ngải Mễ viết gì trong nhật ký, thế có còn gọi là nhật ký nữa không? Gọi là xã luận có khi còn phù hợp hơn. Và thế là ngay từ nhỏ Ngải Mễ đã phải viết hai cuốn nhật ký, một cuốn là “nhật ký cách mạng” để bố kiểm tra, cuốn “nhật ký phản cách mạng” kia mới được gọi là nơi thổ lộ tâm tình. May mà mẹ cô không bắt cô viết nhật ký bằng tiếng Anh, nếu không mỗi ngày cô sẽ phải viết bốn cuốn nhật ký.
Tình huống hay gặp nhất là, trong “nhật ký cách mạng”, cô nắn nót viết: “Tớ yêu bố tớ, yêu cả mẹ tớ…” Nếu viết trôi chảy quá thì ngày mai bố lại yêu cầu cao hơn.
Còn trong “nhật ký phản cách mạng” thì cô rầu rĩ than: “Thế gian này có cô bé nào đau khổ hơn mình không? Nỗi dày vò mà mình phải chịu đựng không những đến từ hai người, mà còn là Bilingual (hai ngôn ngữ)! Đến Anne Frank[1'> cũng chỉ phải viết một cuốn nhật ký, còn mình thì phải viết những hai cuốn. Đen tối quá! Bi thảm quá! Thế này thì còn gì là người nữa!”