
Tác giả: Sơn Táp
Ngày cập nhật: 03:09 22/12/2015
Lượt xem: 134666
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/666 lượt.
quay về bàn cờ, Lữ khinh miệt vứt phong bao lên bàn. Để trêu tức, tôi mở các phong bao của mình và vừa đếm vừa bình phẩm luôn mồm.
- Thôi đi, em có phải trẻ con nữa đâu.
Tôi nhăn mặt thay trả lời.
- Em sắp mười sáu tuổi rồi, anh cáu kỉnh nói. Tuổi này như người khác là đã làm vợ làm mẹ rồi.
- Thế anh định cưới em chắc?
Và tôi phá ra cười.
Lữ sầm mặt.
Đến trưa, nào trống, nào kèn, nào pháo nổ đùng đùng làm rung cả nhà. Tôi nhìn ra cửa sổ, qua đầu tường thấy các vũ công nam nữ mặc quần áo đỏ, lênh khênh trên các cây cà kheo đang nhấp nhô trên không trung giữa đám lá.
Lữ bịt tai lại. Cái thứ âm nhạc quần chúng này đáng lẽ phải làm tôi rối trí thì lại càng khiến tôi tập trung hơn. Ánh sáng mùa đông như làm dậy thêm sắc màu vui tươi trong phố, luẩn quẩn trên bàn cờ. Lễ lạt chỉ làm tôi xa cách hơn với phần còn lại trong thiên hạ. Sự cô độc của tôi như một cuộn lụa đỏ cất kỹ dưới đáy hòm gỗ.
Sau bữa cơm trưa, anh Lữ chìm trong suy tư. Thỉnh thoảng anh chùi vài giọt nước mắt lạc loài nơi khóe mắt. Cũng không thể giả ngu mãi được, tôi im. Sự im lặng như món mì lạnh không muối, tỏa ra trên bàn cờ vây.
Anh họ dường như lúng túng, tì cằm lên tay và không ngớt thở dài. Khoảng mười chín giờ anh phạm phải một sai lầm. Đến tối, chẳng chờ cho cờ hết, tôi chỉ cho anh biết anh đã thua và chúng tôi phải giữ lời đánh cuộc.
Anh đẩy ghế đứng dậy.
Sáng hôm sau, người ta báo cho tôi biết anh đi. Tàu chạy chín giờ. Tôi còn kịp thời gian gặp anh. Trên sân ga, anh chờ tôi nói những lời hối hận. Còn lâu. Tôi chẳng việc gì lại phải đi nài nỉ. Làm thế chỉ tổ khuyến khích cơn dở hơi của anh. Anh đã xúc phạm tôi, anh phải chịu phạt. Sau này tôi sẽ viết cho anh, tôi sẽ gọi anh về với tôi khi những khát khao không trong sáng của anh đã nhường chỗ cho sự khiêm nhường của kẻ chiến bại.
10.
Trung đội của tôi bao vây một ngôi làng chìm trong tuyết. Khi biết chúng tôi đến, đàn bà, trẻ con đều bỏ trốn. Chỉ còn lại vài ông già rúc trong các nếp nhà tranh trông tang thương hơn trong vài thứ tô điểm sơ sài cho dịp tết.
Chúng tôi tập hợp họ lại giữa làng. Quần áo ít ỏi, họ quấn thân hình gầy guộc trong những tấm chăn vá víu và giấu ánh mắt ngu độn dưới lớp mũ mùa đông. Họ run rẩy, rên rỉ, tìm cách làm chúng tôi động lòng thương. Tôi cố nói với họ bằng tiếng quan thoại nhưng họ chẳng hiểu gì và trả lời tôi bằng thứ thổ ngữ thật khó nghe. Tức mình, tôi chĩa súng lục dọa họ. Đột nhiên, ba người trong đám họ phủ phục xuống, bám vào chân tôi và kêu than vô tội bằng thứ tiếng quan thoại chuẩn nhất. Quá kinh tởm, tôi nện báng súng để gỡ mình khỏi tay họ. Nhưng họ lại ôm chặt hơn và dập đầu vào bụng dưới tôi.
Quân tôi cười ran khi thấy tôi lúng túng. Tôi bảo một tên:
- Đồ ngu, tới gỡ cho tôi chứ.
Nụ cười của hắn chuyển thành cái nhăn mặt. Hắn nhanh nhẹn gỡ súng khỏi vai và xọc lưỡi lê vào chân một lão già.
Người bị thương hét lên vì đau đớn, lăn ra đất. Hai người kia kinh hoảng ngã bật ra sau. Tôi hoàn hồn sau cú sốc, quát lên:
- Đồ khốn, suýt nữa làm tôi bị thương!
Những kẻ vây quanh lại cười sặc như điên.
Sự độc ác của binh lính chúng tôi bắt nguồn từ một nền giáo dục khắc nghiệt. Tát, đấm, chửi bới là những hình phạt hàng ngày dành cho trẻ con. Trong quân ngũ, để rèn luyện sự tuân phục, sĩ quan đánh lính dưới quyền đến tóe máu hoặc dùng loại roi tre đặc biệt để quật vào mặt lính cho tứa máu ra.
Nhưng hành hạ người vô tội khiến tôi ghê tởm. Tôi thương hại những người nông dân Trung Quốc sống trong ngu tối, nghèo đói và bẩn thỉu này. Là người hiền lành, họ sẵn lòng tuân theo dù là hoàng đế người Mãn Châu, hay lãnh chúa Trong Hoa, hoặc hoàng đế Nhật Bản, miễn là được no bụng mỗi ngày.
Tôi ra lệnh cho lính băng bó cho ông già bị thương và đưa họ về nhà. Chúng tôi lục soát nhà họ và lấy luôn phần lương thực dự trữ cho tới hạt cuối cùng. Tôi hứa sẽ trả lại cho họ nếu cho chúng tôi biết chỗ trốn của quân khủng bố.
Tờ mờ sáng hôm sau, có người đến thức chúng tôi dậy.
Cái đói đã mở mồm anh ta. Chúng tôi đi ngay, lao vào cơn bão tuyết mà không chờ trời sáng hẳn.
Mười ngày sau, tôi nhận được một bức thư của anh Lữ. Anh cho biết đã xin được hộ chiếu của Trung Hoa nội địa và lúc tôi đọc thư của anh thì anh đã đi Bắc Kinh.
Tôi cảm thấy một nỗi buồn là lạ. Tôi ra quảng trường Thiên Phong, nơi những người chơi cờ vây vẫn thản nhiên đắm chìm trong niềm say mê của họ.
Hồi còn nhỏ, tôi thường đi theo anh Lữ khắp nơi anh chơi cờ. Một lần anh bị sốt và gục ngã trên bàn cờ. Tôi đánh thay aắng trận ấy. Chiến thắng này khiến tôi trở thành cô gái duy nhất được chấp nhận trong giới mê cờ.
Năm tháng qua đi và tôi khắc khoải nhìn hoàng hôn của tuổi thơ trôi qua không bao giờ trở lại.
Anh Lữ không hiểu tôi. Anh muốn tôi đi theo anh trong thế giới của người lớn mà chẳng biết rằng cái thế giới đầy huênh hoang và buồn chán đó khiến tôi khiếp sợ.
Sau buổi học, tôi ra quảng trường Thiên Phong. Cờ vây đưa tôi vào thế giới hành độ