
Tác giả: Agatha Christie
Ngày cập nhật: 22:49 17/12/2015
Lượt xem: 134983
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/983 lượt.
g Tuppence trong một thoáng cô tự hỏi lão có thật sự là cái điều cô gọi là ‘lành mạnh’ không. Có một tính chất phác đáng ngạc nhiên trong cặp mắt và cô cũng tự hỏi bà Perry có cần một chỗ yên tĩnh để sống bởi sự thiếu năng lực tinh thần hiển nhiên của chồng mình không.- Ông ấy yêu vườn lắm. Bà Perry nói.Do việc lão đi vào cuộc đối thoại lắng xuống. Bà Perry nói gần hết nhưng cá tính của bà dường như có thay đổi. Bà trò chuyện với tính nhút nhát hơn và đặc biệt chú ý đến chồng. Tuppence nghĩ, để khuyến khích ông, trong một chừng mức nào đó mà một người mẹ có thể bơm cho một đứa trẻ nhút nhát có thể nói chuyện, trình diễn mặt tốt nhất của mình ra trước một người khách, mà vì hơi nhút nhát có lẽ ông ta không đủ khả năng. Khi cô uống trà xong, Tuppence đứng lên. Cô nói’ Tôi phải đi. Cám ơn, bà Perry, rất cám ơn lòng hiếu khách của bà.’- Bà sẽ xem vườn trước khi bà đi chứ. Ông Perry đứng dậy. Nào, đi thôi. Tôi sẽ chỉ cho bà thấy.Cô đi với lão ra ngoài và lão dẫn cô đến cái góc đằng xa lão đang đào.- Những cây hoa này có đẹp không? Đây có một số hoa hồng lỗi thời - xem cái này, màu đỏ và trắng có sọc.- Commandant Bearepaire. Tuppence nói.- Chúng tôi gọi nó là’ York và Lancaster’. Chiến tranh giữa các hoa hồng. Mùi ngọt, hả?- Mùi thơm tuyệt vời.- Thơm hơn chúng là Hybrid Teas kiểu mới.Trong một chừng mực nào đó khu vườn hơi không tương xứng. Những hạt giống kiểm tra thiếu hoàn hảo, còn hoa được cột cẩn thận kiểu nghệ sĩ.- Những màu sáng, lão Perry nói. Tôi thích những màu sáng. Chúng tôi thường đem người tới coi vườn, vui mừng là cô đã đến.- Cám ơn ông rất nhiều. Tôi nghĩ vườn và nhà ông thật sự rất dẹp.- Cô phải xem phía kia nữa.- Nó để vậy hay để bán? Vợ ông hỏi. Bây giờ không ai ở gần đây cả.- Chúng tôi không biết. Chúng tôi không thấy ai, không có biển treo và không ai từng đến thăm bên đó.- Tôi nghĩ, đó sẽ là một ngôi nhà đẹp để ở.- Cô cần một căn nhà à?- Phải, Tuppence đáp, quyết định nhanh. Vâng, thật sự chúng tôi đang tìm quanh trong xứ một chỗ nhỏ, dành cho khi chồng tôi về hưu. Có lẽ năm tới, nhưng tôi thích tìm quanh đây khi còn có thời gian.- Nếu cô thích yên thì ở đây yên tĩnh rồi.- Tôi cho là vậy, tôi có thể hỏi đại lí nhà địa phương. Có phải đó là cách ông kiếm nhà?- Đầu tiên chúng tôi đọc thông báo trên báo. Rồi mới đến đại lí nhà.- Chỗ ấy ở đâu - trong Sutton Chacellor? Đó là làng ông, phải không?- Sutton Chancellor? Không. Những văn phòng đại lí đặt ở chợ Basing. Russell và Thompson, đó là cái tên. Cô có thể đi gặp họ mà hỏi.- Vâng, Tuppence đáp, tôi sẽ làm. Từ đây đến chợ Basing bao xa?- Mất hai dặm đến chợ Basing và bảy dặm đến Sutton Chancellor. Có một con lộ chính từ Sutton Chancellor còn quanh đây toàn là đường mòn.- Tôi hiểu. Xin tạm biệt, ông Perry, cám ơn rất nhiều đã cho tôi xem vườn ông.- Đợi một chút. Lão ta cúi xuống, cắt một cái hoa khổng lồ và nắm ve áo Tuppence, lão nhét qua lỗ nút áo cô. Đó, của cô đó. Trông đẹp quá.Trong một phút Tuppence cảm thấy nỗi kinh hoàng bất ngờ. Người đàn ông cao lớn, đi cà nhắc, tánh nết tốt bụng này làm cô sợ chết khiếp. Lão ta nhìn cô cười. Cười khá là hoang dã, gần như đểu cáng. ‘Trông cô rất đẹp,’ lão lại nói.’ Đẹp.’Tuppence nghĩ.“ Ta vui ta không còn là một thiếu nữ... ta không nghĩ ta thích lão cài một bông hoa lên áo ta.” Một lần nữa cô nói lời tạm biệt rồi vội vã quay gót.Cánh cửa ngôi nhà chợt mở và Tuppence đi vào tạm biệt bà Perry. Bà Perry ở trong bếp, lau chùi đồ trà còn Tuppence hầu như tự động kéo một tấm vải ra khỏi lò nướng bắt đầu lau khô.- Cám ơn nhiều. Cô nói. Bà và chồng bà. Bà quá tử tế và hiếu khách đối với tôi - Cái gì kia?Từ nơi bức tường nhà bếp, hay đúng ra phía sau bức tường chỗ trước kia một dãy bếp lò cũ đứng, vọng ra một tiếng thét lớn đồng lúc với tiếng kêu quang quác và tiếng cào rạch.- Con quạ cổ xám đấy. Nó rơi xuống từ ống khói căn nhà bên kia. Lần nào trong năm nó cũng làm thế. Tuần qua nó rơi xuống ống khói nhà tôi. Cô hiểu không, chúng làm tổ trong ống khói.- Còn cái gì trong nhà kia vậy?- Phải, lại nó lần nữa.Một lần nữa tiếng quang quác và tiếng la của con chim lâm cảnh khốn cùng đến tai họ. Bà Perry nói. Không có ai trong ngôi nhà trống để chịu khó bỏ công ra, cô hiểu chứ. Những ống khói phải được chùi dọn và những thứ tương tự.Tiếng kêu quang quác tiếng cào cấu vẫn tiếp tục.- Con chim khốn khổ.- Tôi biết. Tôi không thể đem nó lên nữa đâu.- Bà muốn nói nó sẽ chết ở đó à?- Như tôi nói nó bay xuống ống khói của chúng tôi. Hai con, thật thế. Một con chim non. Chúng tôi lôi nó lên và nó bay được, nó ổn rồi. Con kia đã chết.Tiếng kêu quang quác và cuộc xô đẩy cuồng dại vẫn tiếp tục.Ông Perry qua cánh cửa đi vào. Chuyện gì thế? Ông nói, nhìn người nọ đến người kia.- Có một con chim, Amos. Nó hẳn kẹt trong ống khói nhà bên kia. Nghe không?- Ê, nó đến từ tổ con quạ cổ xám mà.- Tôi ước chúng ta vào đó được.- A, bà không thể làm được gì sất. Chúng sẽ chết vì sợ, nếu không có chi khác.- Nó sẽ bốc mùi.- Ơ đây cô không nên ngửi bất cứ cái gì. Cô mềm yếu lắm. Ông ta tiếp tục nhìn người nọ đến người kia,” giống như tất cả bọn