
Tác giả: Agatha Christie
Ngày cập nhật: 22:49 17/12/2015
Lượt xem: 1341095
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/1095 lượt.
đàn bà ”, nếu bà muốn tôi sẽ lấy nó ra.- Sao, có một cánh cửa sổ mở à?- Có thể vào qua cửa lớn.- Cửa nào?- Trong sân bên ngoài này. Chìa khóa treo ở đó.Lão ta bước ra đi dọc đến cuối vườn, mở một cánh cửa lớn ở đó. Thật ra đó là một nhà kho ươm cây giống, nhưng một cánh cửa lớn lại dẫn vào phía nửa ngôi nhà kia và gần cửa lớn của kho ươm cây giống sáu bảy chiếc chìa khóa rỉ treo trên một cái đinh.- Đây là một cái chìa khớp. Lão Perry nói.Lão lấy cái chìa xuống tra vào ổ, sau khi nhiều lần phỉnh phờ gây sức ép và cưỡng bức, chìa khoả rỉ sét trong ổ.- Trước tôi đã vào đây một lần, lão nói, khi tôi nghe tiếng nước chảy. Một người nào đó đã quên khóa vòi nước cho khớp.Lão đi vào và hai người phụ nữ theo sau. Cánh cửa dẫn vào một phòng nhỏ gồm những chậu bông khác nhau trên những cái kệ và một chậu rửa chén có một vòi nước.- Một phòng để hoa, tôi không ngạc nhiên mà. Nơi người ta thường chuẩn bị bông. Xem nào? Có nhiều chậu ở đây.Có một cánh cửa mở ra ngoài phòng để hoa. Cửa này không khoá. Lão mở cửa đi qua. Tuppence nghĩ, giống như đi vào một thế giới khác. Đường hành lang phía ngoài được phủ một đống thảm. Một lối đi nhỏ dọc theo có một cánh cửa lớn khép hờ và từ đó vọng đến tiếng đập cánh của con chim khốn khổ. Perry xô cửa mở ra và vợ lão cùng Tuppence bước vào.Những cửa sổ khép chặt nhưng có một phía một cánh cửa chớp đang treo lủng lẳng và ánh sáng lọt vào. Mặc dù căn phòng mờ tối, vẫn có một tấm thảm tuyệt đẹp trên sàn nhà, màu xanh lục đậm. Có một cái kệ dựa vào tường nhưng không có bàn ghế. Đồ đạc chắc chắn đã dời đi, những bức màn và thảm để lại như những đồ đạc cố định trao cho người thuê tiếp.Bà Perry đi về phía lò sưởi. Con chim nằm trong vỉ chắn lò đang vùng vẫy thốt ra những tiếng kêu quang quác lớn trong cảnh túng cùng. Bà ta cúi xuống, nhặt con chim lên và nói. Mở cửa sổ ra nếu ông có thể, Amos.Amos bước qua, kéo cửa chớp sang bên, mở khoá phía bên kia rồi đẩy mạnh chốt cửa. Ông bực bội nâng tấm cửa thấp có khung trợt lên. Ngay khi cửa mở ông Perry chồm ra ngoài thả con quạ. Nó lắc lư trên cỏ, nhảy nhanh vài bước.- Tốt hơn giết nó đi, nó bị thương rồi. Perry nói.- Để nó đó một chút, bà vợ nói. Cô không bao giờ hiểu. Loài chim hồi phục rất nhanh. Sự sợ hãi khiến chúng có vẻ như bại liệt đó thôi.Quả thế, vài phút sau với một sức chiến đấu cuối cùng, con quạ mỏ khoang đập cánh bay đi.- Tôi chỉ hi vọng, Alice Perry nói, nó không xuống ống khói nữa. Những sinh vật mâu thuẫn, loài chim ấy. Không hiểu chuyện ấy có gì hay cho chúng. Bay vào một căn phòng, không bao giờ chúng tự bay ra được. Ô, bà ta thêm vào, thật là hỗn độn.Bà, Tuppence và ông Perry ba người chăm chăm nhìn vào tấm vỉ chắn lò. Từ ống khói là một đống mồ hóng, rác rưởi kì lạ và những viên gạch bể rớt xuống. Rõ ràng cách đây ít lâu nó được sửa chữa tồi.- Một ai đó đã đến sống ở đây. Bà Perry nhìn quanh.- Một ai đó phải chăm sóc ngôi nhà, Tuppence đồng ý với bà. Một kĩ sư xây dựng phải xem xét và làm cái gì đó hoặc toàn bộ ngôi nhà sẽ sụp đổ.Có lẽ nước đang chảy qua mái nhà vào đỉnh những căn phòng. Phải, nhìn cái trần nhà kìa, nước xuyên qua đó.- Thật đáng xấu hổ. Tuppence nói. Làm đổ sụp một căn nhà đẹp - thật sự là một căn phòng đẹp, phải không?Cô và bà Perry cùng nhìn nhau thông cảm. Xây vào khoảng 1970 nó có tất cả sự sang trọng của một ngôi nhà thời đó. Nó có nguyên một mẫu những lá liễu in trên giấy dán tường không màu.- Nó sụp đổ bây giờ đấy.Tuppence cời đống đổ nát vào cái rá lò.- Người ta nên quét nhà mới phải.- Bây giờ bà muốn gì khi làm phiền mình với một ngôi nhà không thuộc về bà? Chồng bà nói. Để nó yên, thưa bà. Sáng ngày mai nó sẽ lại trong tình trạng như cũ cho coi.Với một ngón chân Tuppence chuyển động nhẹ nhàng những viên gạch sang bên.- Ô, cô kêu lên một tiếng nhờm tởm.Có hai con chim chết nằm trong lò sưởi. Bằng vẻ bên ngoài của chúng thì chúng đã chết khá lâu.- Cái gì đây? Tuppence hỏi.Cô dùng đầu ngón chân khều một vật gì đó nằm ẩn trong đống rác. Rồi cô cúi xuống và nhặt lên.- Đừng đụng vào con chim chết ấy.- Nó không phải là một con chim. Một cái gì khác ắt phải rơi xuống ống khói. Tôi chưa bao giờ, cô thêm vào, nhìn chăm chăm vật ấy. Đó là một con búp bê. Con búp bê trẻ em.Họ nhìn xuống. Tả tơi, rách rưới, quần áo là những mảnh vụn, đầu nó thõng xuống vai, nguyên thủy hẳn là búp bê của một đứa trẻ. Một con mắt thủy tinh rơi ra ngoài. Tuppence vẫn còn giữ nó.- Tôi tự hỏi, cô nói, tôi tự hỏi làm sao con búp bê lại lên trên một ống khói được chứ. Phi thường lạ lùng quá.
SUTTON CHANCELLOR
Sau khi rời khỏi ngôi nhà bên con kênh, Tuppence lái xe dọc son đường uốn khúc hẹp cô đoán chắc sẽ đưa mình đến làng thuộc Sutton Chancellor. Đó là một con đường cách biệt. Từ đó không nhìn thấy nhà - chỉ có những cánh cổng chắn từ đó những con đường mòn đầy bùn dẫn thẳng ra cánh đồng. Xe cộ rất ít - Có một xe máy kéo chạy dọc theo con đường, một chiếc xe tải chở hàng với bức tranh một ổ bánh khổng lồ trông thiếu tự nhiên kiêu hãnh loan báo nó mang theo niềm hoan lạc của người Mẹ. Tháp chuông nhà thờ cô nhìn thấy t