
Tác giả: Đang cập nhật
Ngày cập nhật: 00:16 17/12/2015
Lượt xem: 134920
Đang đọc: 11 độc giả
Bình chọn: 9.00/10/920 lượt.
ười đời trước như Hán Thiếu Đế với Đổng Trác, đời sau như Lý Chiêu Hoàng với Trần Thủ Độ cũng đủ biết, thời kỳ ấu chúa công thần tự cổ chí kim, bao giờ cũng lắm mầm họa.
Bấy giờ ở Làng Việp, huyện Phú Bình, phủ Phú Lương[1'> có người tên cúng cơm là Nguyễn Tạm, dân trong làng thường gọi là ông Tạm Mộc bởi ông làm nghề thợ mộc.
Vốn dĩ, ông Tạm Mộc không phải tay lão luyện trong nghề. Khi xưa còn bé ông đi ở cho nhà người chủ có xưởng mộc trên phủ. Người chủ ấy thấy thằng bé chăm chỉ cần cù bèn sinh lòng thương mến, cho phụ nghề mộc để có cái nghề sau này nuôi lấy thân. Người chủ vốn cũng không phải tay giỏi giang, cho nên không phải danh sư làm sao xuất được cao đồ ? Ông Tạm Mộc cũng chỉ có thể đóng những thứ đơn giản. Những chạm trổ cầu kỳ, rồi khảm trai nạm ốc, hiển nhiên ông Tạm Mộc không thể làm được. Ông Tạm Mộc học nghệ được hai năm thì ông chủ xưởng ấy thua bạc đến mất cửa nhà, ông Tạm Mộc sắm lấy ít đồ nghề quay về làng, vừa làm ruộng vừa làm mộc kiếm cơm.
Ông Tạm Mộc đi cấy thuê được vài năm thì chán nghề cày cấy, chuyển hẳn sang làm mộc. Nghề ông vốn không tinh, có điều đất Phú Lương vốn là vùng cách xa Kinh Thành, nơi ấy dân tình còn khốn khó, việc chế tác các vật dụng trong gia đình không cần cầu kỳ xa hoa, chỉ cần tiện dụng dễ dùng. Ông Tạm Mộc thường được bà con trong làng nhờ đóng giúp các thứ vật dụng từ bàn, ghế, sập, gụ, đến cả rường kèo vì cột khi cất nhà. Tính ông Tạm Mộc vui vẻ xuề xòa, ai kỳ kèo bớt một vài đồng ông đều thuận ý ngay. Như thế chẳng những không làm ông nghèo đi, mà dân tình nơi ấy cũng thuần hậu chất phác, dù có mặc cả như thế, nhưng thấy người thợ mộc hiền lành tốt tính, cũng chẳng ai nỡ để ông thiệt thòi, khi xong việc lại mang chút quà cáp dân dã sang tạ ơn. Nhờ thế nên xét ra ông cũng chẳng thiệt thòi gì, lại giữ được cái tình với bà con làng xóm, việc nọ đẻ việc kia, ông Tạm Mộc cũng không mấy khi thiếu việc làm.
Vợ ông Tạm Mộc, dân làng thường gọi là Tạm thị theo tên chồng, vốn là người đàn bà có nhan sắc tầm thường, lại đanh đá, hay ghen nhưng tốt tâm lại khỏe mạnh chăm chỉ. Ngày ngày thị ra chợ làng buôn bán lặt vặt, có khi lại làm thuê cho người ta, phụ giúp chồng nuôi năm đứa con nhỏ.
Tháng chạp năm kỷ mùi, tức năm Thiệu Hưng thứ hai[2'>. Tết nhất sắp tới, ông Tạm Mộc bận tối ngày bởi nhiều nhà dành dụm được chút ít tiền, đều muốn sắm đồ đạc mới trong nhà, hoặc là sửa lại những thứ đã hỏng. Cái lán nhỏ vừa là xưởng mộc, vừa là nơi chứa đồ mé tả nhà ông Tạm chất đầy bàn ghế giường tủ nhà thiên hạ, cái mới cái cũ ngổn ngang. Ông Tạm Mộc cả nể, hứa với người ta làm nhiều quá, đêm nào cũng phải thức làm.
Mà những ấy ông làm đêm cũng tiện, bởi Tạm thị mấy hôm nay không ra chợ làng nữa mà cơm nắm muối vừng theo vợ chồng người anh trai mang bánh chưng ra tận huyện bày ra đường mà bán, chợ tết từ đầu tháng chạp đã nhộn nhịp lắm, ngày nào cũng mở chứ không phải đợi đến rằm đến tháng. Đường từ làng ra đến huyện mất đến mấy ngày cả đi cả về, Thị Tạm đi mấy chuyến thấy có lời gấp mấy lần buôn bán cò con ở làng. Thị mừng lắm, bỏ tiền mua mấy yến nếp trắng thượng hạng, lại thêm đậu xanh, thịt lợn, lá dong, củi lửa… bắc một cái nồi lớn cạnh lán mộc của ông Tạm, sai năm đứa con ngày đêm canh chừng. Ông Tạm Mộc nhờ ánh lửa leo lét, chỉ cần thắp thêm ngọn đèn dầu lạc để gần bên mà làm cho đến khi mệt quá thì lăn ra ngủ.
Mỗi khi Thị Tạm về lấy thêm bánh mang bán thường ở nhà một đêm, cả gia đình quây quần bên bếp lửa hồng, tiếng bào tiếng đục, tiếng củi lép bép cháy, tiếng cười nói, kể chuyện, cả tiếng la khóc của bọn trẻ làm không khí gia đình thật đầm ấm hạnh phúc.
Đến ngày hăm ba tết, ông Tạm Mộc mới làm hết hai phần ba số việc đã nhận. Thế mà vẫn còn có người đến nhờ, là vì nhiều nhà đến gần cuối năm mới nhận được tiền đi làm thuê ở đợ cho người ta. Tâm tình muốn có một nơi ở khang trang, đầm ấm, có thêm cái bàn cái ghế mới để chờ mong một năm an lành thì ai mà không có? Ông Tạm Mộc sợ thất hẹn với người ta nên không muốn nhận thêm nữa. Nhiều người biết tính ông thật thà chịu khó, cứ nói khó vài câu là ông lại nể nang mà nhận làm. Lại thêm những người tới đặt muộn thường là những người nghèo khó, có khi vác tới cả cái giường mà chân cẳng mục ruỗng, chỉ e đêm giao thừa vợ chồng đang ngủ thì sập, lại dông cả năm. Những người nghèo như thế, không làm giúp cho thì ông Tạm Mộc áy náy lắm.
Đến tối, ông Tạm Mộc đang bào lại cái bàn cũ nhà hàng xóm, vừa làm ông vừa lo lắng không xong được trước tết. Ông tự nhủ nhất quyết không thể cả nể thêm nữa. Trời khi đó mưa rả rích suốt cả canh giờ. Khuya lắm rồi, chỉ còn con Mẹo là đứa con cả của ông ngồi co ro canh lửa, mấy đứa nhỏ đã đi ngủ hết. Thấy con Mẹo cũng gà gật ngủ, ông Tạm Mộc thương con, nói nhỏ :
– Vào ngủ đi, thầy trông cho.
Con Mẹo cả mừng, vâng một tiếng rồi lẹt xẹt bước chân vào nhà.
Ông Tạm Mộc làm một mình ngoài sân hồi lâu, bất chợt một cơn gió mạnh thổi thốc tới mang theo hơi lạnh thấu xương. Cơn gió ấy làm cả cái bếp lửa đang cháy leo lét và ngọn đèn dầu đặt c